Đái tháo đường thai kỳ là gì? Các công bố khoa học về Đái tháo đường thai kỳ

Đái tháo đường thai kỳ, còn được gọi là đái tháo đường mang thai, là một tình trạng mà mức đường huyết của phụ nữ mang thai tăng lên mức cao hơn bình thường. Đi...

Đái tháo đường thai kỳ, còn được gọi là đái tháo đường mang thai, là một tình trạng mà mức đường huyết của phụ nữ mang thai tăng lên mức cao hơn bình thường. Điều này có thể xảy ra do cơ địa hoặc do tác động của hormon mang thai. Đái tháo đường thai kỳ có thể có tác động đến cả mẹ và thai nhi. Nếu không được kiểm soát tốt, tình trạng này có thể gây ra các vấn đề sức khỏe như tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, tiểu đường sau khi sinh và phân phối nhiều sự suy giảm chức năng cử động. Để kiểm soát đái tháo đường thai kỳ, có thể cần thay đổi chế độ ăn uống và thực hiện hoạt động thể chất.
Đái tháo đường thai kỳ là một dạng đái tháo đường mà thường xuất hiện lần đầu tiên trong quá trình mang thai và mất sau khi sinh. Nguyên nhân chính của tình trạng này là sự tương tác giữa hormone mang thai và hệ thống insulin trong cơ thể.

Trong quá trình mang thai, các hormone như estrogen và progesterone tăng lên, ảnh hưởng đến sự tiết insulin từ tuyến tụy. Insulin là hormone giúp điều chỉnh mức đường huyết bằng cách chuyển đổi đường từ máu vào tế bào để sử dụng làm năng lượng. Tuy nhiên, hormone mang thai có thể làm giảm khả năng tác động của insulin, dẫn đến tăng mức đường huyết.

Đái tháo đường thai kỳ thường được chẩn đoán giữa tuần thứ 24 và 28 của thai kỳ thông qua xét nghiệm đường huyết. Phụ nữ mang thai có nguy cơ cao bị đái tháo đường thai kỳ nếu có các yếu tố sau:

1. Tuổi trên 25.
2. Tiền sử gia đình về tiểu đường.
3. Trọng lượng cơ thể trước khi mang bầu cao.
4. Mắc các bệnh liên quan đến lượng lipid bất thường hoặc có nồng độ triglyceride cao trong máu.
5. Thai nhi có cân nặng quá lớn hoặc nhiều thai.
6. Nguy cơ tiềm ẩn của phụ nữ từ nhóm dân tộc Á Đông, châu Phi, Ấn Độ và Trung Đông.

Nguy cơ bị đái tháo đường thai kỳ có thể được kiểm soát và làm giảm thông qua việc thực hiện các biện pháp sau:

1. Thay đổi chế độ ăn uống: Tăng cân nhắc về việc ăn uống chứa ít đường và tinh bột, tăng lượng rau xanh và chất xơ trong khẩu phần ăn, và duy trì khẩu phần ăn cân đối.
2. Tập thể dục: Thực hiện các bài tập thể dục nhẹ nhàng được được thông qua từ bác sĩ, như đi bộ hoặc bơi lội, giúp cải thiện mức đường trong máu.
3. Sử dụng insulin: Trong một số trường hợp, sử dụng insulin có thể là cần thiết để kiểm soát mức đường huyết.

Đái tháo đường thai kỳ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của cả mẹ và thai nhi. Nếu không được kiểm soát tốt, tình trạng này có thể dẫn đến tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch cho mẹ trong quá trình mang bầu và tăng nguy cơ mắc tiểu đường sau khi sinh. Đối với thai nhi, nó có thể gây ra trọng lượng cơ thể lớn và tăng nguy cơ đái tháo đường type 2 trong tương lai.

Việc duy trì mức đường huyết ổn định trong quá trình mang thai rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe của mẹ và thai nhi. Điều này yêu cầu sự theo dõi và quản lý thường xuyên từ các chuyên gia y tế, bao gồm bác sĩ và dược sĩ, để đảm bảo một thai kỳ an toàn và khỏe mạnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đái tháo đường thai kỳ":

Phân loại và Chuẩn đoán Đái tháo đường và các Dạng Không dung nạp Glucose khác Dịch bởi AI
Diabetes - Tập 28 Số 12 - Trang 1039-1057 - 1979

Một phân loại về đái tháo đường và các dạng khác của không dung nạp glucose, dựa trên kiến thức đương đại về hội chứng không đồng nhất này, đã được xây dựng bởi một nhóm công tác quốc tế được tài trợ bởi Nhóm Dữ liệu Đái tháo đường Quốc gia - NIH. Phân loại này, cùng với tiêu chuẩn chuẩn đoán đái tháo đường được sửa đổi, đã được xem xét bởi các thành viên chuyên nghiệp của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ và các phiên bản tương tự đã được lưu hành bởi Hiệp hội Đái tháo đường Anh, Hiệp hội Đái tháo đường Úc, và Hiệp hội Nghiên cứu Đái tháo đường Châu Âu. ADA đã chấp thuận những đề xuất của nhóm công tác quốc tế, và Ủy ban Chuyên gia về Đái tháo đường của Tổ chức Y tế Thế giới đã chấp nhận những khuyến nghị quan trọng của nó. Đề nghị rằng phân loại này sẽ được sử dụng như một khung tiêu chuẩn để tiến hành nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu dịch tễ học nhằm thu được dữ liệu có ý nghĩa và mang tính so sánh hơn về phạm vi và tác động của các dạng đái tháo đường khác nhau và các dạng khác của không dung nạp glucose.

Điều trị y tế của đái tháo đường không được xem xét trong bài báo này, và phân loại này không phải là một nỗ lực để định nghĩa các hướng dẫn cho điều trị bệnh nhân.

Những sự thay đổi nổi bật được đề xuất trong phân loại này là:

1. Loại đái tháo đường phụ thuộc insulin, dễ bị nhiễm ceto (ketosis), có liên quan với gia tăng hoặc giảm tần suất của các kháng nguyên tương thích mô (HLA) nhất định trên nhiễm sắc thể 6 và với kháng thể tế bào đảo, được coi là một phân nhóm riêng biệt của đái tháo đường [đái tháo đường phụ thuộc insulin (IDDM)]. Loại này đã bị gọi không đúng là đái tháo đường trẻ vị thành niên. Vì nó có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, khuyến cáo rằng việc chuẩn đoán dựa trên độ tuổi khởi phát nên được loại bỏ.

2. Các loại đái tháo đường không phụ thuộc insulin, không dễ bị nhiễm ceto, không phải là thứ cấp đối với các bệnh hoặc tình trạng khác, được coi là một phân nhóm thứ hai riêng biệt của đái tháo đường [đái tháo đường không phụ thuộc insulin (NIDDM)]. Phân nhóm này được chia nhỏ - tùy thuộc vào việc có hay không thừa cân (NIDDM thừa cân và NIDDM không thừa cân, tương ứng) và bệnh nhân trong phân nhóm này có thể được đặc trưng thêm bởi loại điều trị họ nhận (insulin, thuốc hạ đường huyết uống, hoặc chế độ ăn) hoặc bởi các đặc điểm khác mà nghiên cứu viên quan tâm. Người ta tin rằng sự không đồng nhất trong phân nhóm này, và cũng trong IDDM, sẽ được chứng minh bởi các nghiên cứu tiếp theo.

3. Các loại đái tháo đường gây ra bởi điều kiện nào khác hoặc xuất hiện với tần suất gia tăng cùng với các điều kiện khác (ám chỉ mối quan hệ căn nguyên) được coi là một phân nhóm thứ ba của đái tháo đường - đái tháo đường liên quan đến các điều kiện và hội chứng nhất định. Phân nhóm này được chia theo các mối quan hệ căn nguyên đã biết hoặc nghi ngờ.

4. Lớp đái tháo đường thai kỳ bị hạn chế với phụ nữ trong đó không dung nạp glucose phát triển hoặc được phát hiện trong thời gian mang thai.

5. Những cá nhân có mức glucose huyết tương (PG) trung gian giữa những mức được coi là bình thường và những mức được coi là đái tháo đường [xem (8)] được gọi là có không dung nạp glucose suy giảm. Đề xuất rằng các thuật ngữ hóa học, tiềm ẩn, ranh giới, dưới lâm sàng, và đái tháo đường không triệu chứng, mà đã được áp dụng cho những người trong lớp này, nên được từ bỏ, vì việc sử dụng thuật ngữ đái tháo đường sẽ dẫn đến các biện pháp xã hội, tâm lý, và kinh tế không chính đáng trong bối cảnh thiếu tính nghiêm trọng của sự không dung nạp glucose của họ.

#Đái tháo đường #Không dung nạp Glucose #Phân loại #Tiêu chuẩn chuẩn đoán #Hội chứng HLA #Đái tháo đường thai kỳ.
Tỷ lệ Đái Tháo Đường Thai Kỳ ở Đông và Đông Nam Á: Một Tổng Quan Hệ Thống và Phân Tích Tổng Hợp Dịch bởi AI
Journal of Diabetes Research - Tập 2018 - Trang 1-10 - 2018

Mục tiêu. Để xem xét tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ (GDM) ở khu vực Đông và Đông Nam Á.Phương pháp. Chúng tôi đã tìm kiếm hệ thống các nghiên cứu quan sát về tỷ lệ GDM từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 12 năm 2016. Tiêu chí bao gồm là các bài báo gốc bằng tiếng Anh, với toàn văn được xuất bản trong các tạp chí được bình duyệt. Chất lượng của các nghiên cứu được bao gồm đã được đánh giá bằng cách sử dụng các hướng dẫn của Hội đồng Nghiên cứu Y tế và Y học Quốc gia, Úc. Các mô hình hiệu ứng cố định và hiệu ứng ngẫu nhiên đã được sử dụng để ước tính tỷ lệ tổng hợp GDM và khoảng tin cậy 95% (CI) tương ứng.Kết quả. Tổng cộng có 4415 bài báo đã được sàng lọc, và 48 nghiên cứu với 63 quan sát về tỷ lệ GDM đã được đưa vào đánh giá cuối cùng. Tỷ lệ tổng hợp GDM là 10,1% (CI 95%: 6,5%–15,7%), mặc dù có sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia. Tỷ lệ GDM ở các quốc gia có thu nhập thấp hoặc trung bình thấp cao hơn khoảng 64% so với các quốc gia có thu nhập cao. Hơn nữa, phương pháp sàng lọc một bước có khả năng được sử dụng để chẩn đoán GDM gấp đôi so với quy trình sàng lọc hai bước.Kết luận. Tỷ lệ GDM ở khu vực Đông và Đông Nam Á là cao và có sự khác biệt giữa và trong các quốc gia. Cần có sự đồng nhất quốc tế trong các chiến lược sàng lọc và tiêu chí chẩn đoán cho GDM.

Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng năm 2015
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 4 - Trang 34 - 38 - 2016
Đặt vấn đề: Đái tháo đường thai kì là một thể đặc biệt của đái tháo đường và đang là vấn đề đáng quan tâm vì số lượng bệnh nhân ngày càng gia tăng với hậu quả, biến chứng của bệnh cho người mẹ và thai nhi ngày càng phức tạp. Mục tiêu: xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ cho phụ nữ đến khám thai tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng và mô tả một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang trên 885 thai phụ được sàng lọc đái tháo đường thai kỳ bằng nghiệm pháp dung nạp Glucose máu theo hướng dẫn của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ 2012. Kết quả: Tỷ lệ ĐTĐTK theo tiêu chuẩn ADA 2012 tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng là 37,4%. Một số yếu tố liên quan là: tiền sử sinh con trên 4000 gr (OR = 2,40, 95%CI: 1,31 - 4,41), tiền sử gia đình ĐTĐ thế hệ thứ nhất (OR = 2,34, 95%CI: 1,37 - 4,02), hội chứng buồng trứng đa nang (OR = 2,29, 95%CI: 1,37 - 3,83), tiền sử thai lưu không rõ nguyên nhân (OR = 2,18, 95%CI: 1,47 - 3,22), thừa cân, béo phì (OR = 1,69, 95%CI: 1,16 - 2,48). Kết luận: Tỷ lệ ĐTĐTK tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng là 37,4%. Một số yếu tố nguy cơ là:tiền sử sinh con trên 4000 gr, tiền sử gia đình ĐTĐ thế hệ thứ nhất, hội chứng buồng trứng đa nang, tiền sử thai lưu không rõ nguyên nhân, thừa cân, béo phì.  
#Đái tháo đường thai kì #yếu tố nguy cơ #Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng.
KẾT QUẢ SẢN KHOA Ở THAI PHỤ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ ĐẺ ĐỦ THÁNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: nhận xét kết quả sản khoa ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ đẻ đủ tháng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2019-2020.Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân ĐTĐTK mổ đẻ (78,29%) cao hơn so với tỷ lệ đẻ thường. Các nguyên nhân ĐTĐTK đẻ mổ thường gặp là do nguyên nhân có tiền sử mổ cũ (32,03%), nguyên nhân do thai to chiếm 14,84%.Cân nặng sơ sinh trung bình của nhóm thai phụ ĐTĐTK đẻ đủ tháng là 3433 ± 442g. Có 12 trẻ có cân nặng từ 4000g trở lên, chiếm 7,05%. Phần lớn trẻ sinh ra có mẹ bị ĐTĐTK không có biến chứng sau đẻ, chiếm tỷ lệ 81,64%. Có 4 trẻ bị hạ glucose máu (2,35%), 22 trẻ có bị vàng da sau sinh (12,94%). Tỷ lệ trẻ sơ sinh có chỉ số Apgar sau 1 phút và sau 5 phút <7 điểm chiếm tỷ lệ thấp (lần lượt là 2,94% và 1,18%).Kết luận: thai phụ ĐTĐTK có tỷ lệ mổ đẻ cao. Biến chứng ở trẻ sinh ra có mẹ bị ĐTĐTK thường gặp là vàng da sau sinh, biến chứng ít gặp hơn là hạ glucose máu và suy hô hấp sau sinh.
#kết quả sản khoa #đái tháo đường thai kỳ #hạ đường máu #suy hô hấp sau sinh #vành da sau sinh
Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ ở phụ nữ có yếu tố nguy cao và mức độ ảnh hưởng tới thai phụ, thai nhi ở Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 14 Số 4 - Trang 41-46 - 2017
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang trên 400 thai phụ có yếu tố nguy cơ cao được sàng lọc đái tháo đường thai kỳ bằng nghiệm pháp dung nạp Glucose máu theo hướng dẫn của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ năm 2010. Mục tiêu: xác định tỷ lệ ĐTĐTK ở nhóm phụ nữ có yếu tố nguy cơ cao và mức độ ảnh hưởng của ĐTĐTK đến thai phụ và thai nhi tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng. Kết quả: Tỷ lệ ĐTĐTK tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng là 36,8%. Càng nhiều yếu tố nguy cơ thì tỷ lệ mắc ĐTĐTK càng cao. Tỷ lệ đẻ non ở nhóm ĐTĐTK kiểm soát không tốt là 28,0% còn ở nhóm kiểm soát tốt là 3,1% ( p<0,01). Tỷ lệ bị TSG/SG trong nhóm ĐTĐTK kiểm soát không tốt là 26,0%, cao hơn ở nhóm ĐTĐTK kiểm soát tốt ( p<0,01). Tỷ lệ đa ối ở nhóm ĐTĐTK kiểm soát không tốt là 16%, nhóm ĐTĐTK kiểm soát tốt là 2,1( p<0,01). Trong nhóm ĐTĐTK kiểm soát không tốt có 6,7% trường hợp sinh thai to, tỷ lệ này trong nhóm ĐTĐTK kiểm soát tốt là 2,1%. Có 3 trường hợp tử vong chu sinh thuộc nhóm ĐTĐTK kiểm soát không tốt. Tỷ lệ sơ sinh bị hạ đường huyết ở nhóm ĐTĐTK kiểm soát không tốt là 28,0%, nhóm ĐTĐTK kiểm soát tốt tỷ lệ này là 7,2%( p<0,05). Kết luận: Tỷ lệ ĐTĐTK ở phụ nữ có yếu tố nguy cơ cao tại Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng là 37,4%. ĐTĐTK kiểm soát không tốt ảnh hưởng đến đẻ non, TSG/SG, đa ối, thai to, hạ đường huyết.
#Đái tháo đường thai kì #yếu tố nguy cơ #Bệnh viện Phụ Sản Hải Phòng
KẾT QUẢ XỬ TRÍ SẢN KHOA CỦA SẢN PHỤ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN NĂM 2021 - 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Đánh giá kết quả xử trí sản khoa của sản phụ đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 213 hồ sơ bệnh án của các sản phụ mắc ĐTĐTK và kết thúc thai kỳ tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An từ tháng 01/2021 đến tháng 02/2022. Kết quả: Tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu là 31,75 tuổi. 79,57% trường hợp kết thúc thai kỳ từ sau 37 tuần, 20,43% trường hợp đẻ non. Tỷ lệ đẻ thường là 22,49%, đẻ forceps là 1,92%, mổ đẻ là 75,59%. Không gặp các tai biến nặng cho mẹ sau đẻ đường dưới và sau mổ. 72,61% trẻ sơ sinh không mắc các biến chứng sơ sinh, hạ đường huyết là biến chứng hay gặp nhất với tỷ lệ 19,57%. Kết luận: Tỷ lệ đẻ đủ tháng là 79,57%, đẻ non là 20,43%. Tỷ lệ đẻ đường âm đạo là 24,41%; tỷ lệ mổ lấy thai là 75,59%. Tỷ lệ tai biến cho mẹ và trẻ sơ sinh thấp.
#Đái tháo đường thai kỳ #điều trị sản khoa.
Nhận xét thái độ xử trí sản khoa ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 1 - Trang 34 - 38 - 2015
Mục tiêu: Nhận xét thái độ xử trí sản khoa ở thai phụ ĐTĐTK 3 tháng cuối tại bệnh viện phụ sản Trung Ương. Đối tượng nghiên cứu: 415 thai phụ được chẩn đoán ĐTĐTK tuổi thai từ 28 tuần trở lên, trong 2 năm 2012-2013. Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu mô tả. Kết quả: kết thúc thai kì từ 38 tuần trở lên 90,12%; 1,21% từ 28 đến 33 tuần. Mổ đẻ là 76,38%, đẻ thường 22,16% và forcep 1,45%. Có 82,96% mổ đã có chuyển dạ, 17,04 % đình chỉ thai nghén. Mổ lấy thai vì ĐTĐTK đơn thuần 46,30%, thai to 18,29%, và vết mổ cũ là 13,56%. Biến chứng rách CTC, tụ máu sau đẻ chủ yếu là do thai to và forceps. Có 2 trường hợp chảy máu phải truyền máu. Sơ sinh 4,09% hạ ĐH sau sinh, 0,72% trường hợp hạ canxi máu và chấn thương do forceps 0,48%. Kết luận: Hơn 90% kết thúc thai kì khi tuổi thai ≥38 tuần. Mổ đẻ là 76,38%, đẻ thường là 22,65% và forceps là 1,45%. Mổ vì ĐTĐTK đơn thuần là 46,30%. Tai biến rách CTC, tụ máu TSM là 2,89%, truyền máu là 0,48%. Có 1 trường hợp thai chết lưu và 2 trường hợp con bị sang chấn.
#đái tháo đường thai nghén #xử trí sản khoa
Khảo sát tình hình đái tháo đường trong thai kỳ tại Bệnh viện Phụ sản- Nhi Đà Nẵng năm 2016
Tạp chí Phụ Sản - Tập 15 Số 3 - Trang 88 - 93 - 2017
Mục tiêu: xác định tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 230 thai phụ từ 24 – 28 tuần đến khám thai tại bệnh viện Phụ sản- Nhi Đà Nẵng trong thời gian từ tháng 3/2016- 9/2016. Tiến hành nghiệm pháp dung nạp glucose và lấy máu xét nghiệm đường huyết thai phụ ở các thời điểm: lúc đói, 1 giờ và 2 giờ sau uống 75 g glucose. Chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ theo tiêu chuẩn ADA 2014. Kết quả: Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ của các thai phụ mang thai từ 24 – 28 tuần tại bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng là 15,2 %. Các yếu tố được ghi nhận có liên quan đến tỷ lệ mắc đái tháo đường thai kỳ: tuổi; thừa cân, béo phì; tăng cân > 10 kg, tiền sử gia đình có người bị đái tháo đường; tiền sử sẩy thai, thai lưu, tiền sử đái tháo đường thai kỳ và tiền sử sinh con > 3500gram. Kết luận: Tầm soát và chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ cho tất cả thai phụ có tuổi thai từ 24 – 28 tuần là cần thiết. Trong quá trình khám thai và theo dõi thai kỳ cần hỏi và phát hiện những yếu tố nguy cơ đái tháo đường thai kỳ để có chỉ định xét nghiệm đường huyết khi đói ở những lần khám đầu tiên của thai phụ. Đối với thai phụ nguy cơ cao cần chẩn đoán và điều trị đái tháo đường càng sớm càng tốt.
NGHIÊN CỨU MỐI LIÊN QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ ADIPONECTIN, LEPTIN HUYẾT THANH VỚI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Bên cạnh nghiệm pháp dung nạp đường, trong những năm gần đây, các nghiên cứu cũng tìm kiếm những dấu ấn sinh học khác nhằm dự đoán, tầm soát và chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK), trong đó được đề cập nhiều nhất là các adipokines do mô mỡ tiết ra. Ngoài vai trò dự trữ năng lượng, mô mỡ còn là một cơ quan nội tiết quan trọng điều hoà nhiều chức năng sinh học, thông qua việc sản xuất các hormone bao gồm adiponectin, leptin, yếu tố hoại tử khối u (TNFa) và resistin… Các nghiên cứu thấy rằng adiponectin và leptin là những dấu ấn sinh học tiềm năng trong tầm soát và chẩn đoán ĐTĐTK. Mục tiêu nghiên cứu: xác định mối liên quan giữa nồng độ adiponectin, leptin huyết thanh với bệnh đái tháo đường thai kỳ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu bệnh – chứng trên 106 thai phụ có tuổi thai từ 24 đến 28 tuần đến khám bệnh viện Phụ Sản thành phố Cần Thơ, trong đó có 51 thai phụ ĐTĐTK và 55 thai phụ không có ĐTĐTK theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ 2018. Định lượng adiponectin và leptin bằng phương pháp miễn dịch liên kết men (ELISA). Kết quả: Nồng độ adiponectin của nhóm thai phụ ĐTĐTK là 3,46 ±1,07 µg/ml, của nhóm thai phụ không có ĐTĐTK là 5,52 ±2,76 µg/ml, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,001. Nồng độ leptin của nhóm thai phụ ĐTĐTK là 8,69 ±6,80 ng/ml, của nhóm thai phụ không có ĐTĐTK là 7,52 ±4,52 ng/ml, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,28). Kết luận: Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa nồng độ leptin huyết thanh với ĐTĐTK, nồng độ adiponectin thấp có liên quan đến nguy cơ mắc ĐTĐTK.
#Đái tháo đường thai kỳ #adiponectin
Đánh giá kết quả sàng lọc và điều trị bệnh lý đái tháo đường thai kỳ tại bệnh viện phụ nữ thành phố Đà Nẵng
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 64-68 - 2014
Mục tiêu: Nghiên cứu những tác động của bệnh lý đái tháo đường thai kỳ (GDM) lên sản phụ và thai nhi. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu cắt ngang mô tả được tiến hành tại Bệnh viện Phụ nữ thành phố Đà Nẵng từ tháng 3 năm 2013 đến tháng 2 năm 2014. Có 669 bệnh nhân được tiến hành sàng lọc đái tháo đường thai kỳ. Những sản phụ có yếu tố nguy cơ được xét nghiệm chẩn đoán theo các tiêu chuẩn quy định. Những sản phụ không có yếu tố nguy cơ được sàng lọc và chẩn đoán bằng chiến lược “hai bước’’. tiến hành chẩn đoán bệnh lý đái tháo đường vẫn tồn tại bằng test OGTT ở giai đoạn hậu sản 6-12 tuần. Kết quả: Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ 5,23%. Tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose 4,78%, có 62,86% bệnh nhân cần được điều trị insuline. Không có các biến chứng nặng lên thai kỳ và trẻ sơ sinh. Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng trên 4000gr chiếm 11,42%. Ngưỡng glucose máu được đề xuất để xác định test o’sullivan dương tính là 7,91mmol/l. Kết luận: Xử trí tích cực đái tháo đường thai kỳ có liên quan đến việc hạ thấp tỷ lệ suất bệnh lý cho sản phụ và trẻ sơ sinh.
Tổng số: 57   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6